mới nhất Dân sinh Đô thị Di sản Thị dân Văn hóa Khoa học Lối sống Diễn đàn multimedia đô thị đặc thù người đô thị trò chuyện đời phố đời người

Nguy cơ tuyệt chủng nhanh... như rùa

 05:50 | Thứ năm, 05/09/2019  0
Phần lớn rùa ở Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc – nước có thị trường rùa lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 750 triệu USD/năm với hơn 300 triệu con rùa được bán hàng năm...

Để chống lại việc khai thác quá mức và sự suy giảm nhanh chóng của quần thể rùa ở sông Mekong, đặc biệt ở khu vực chảy qua Việt Nam và Lào, Báo cáo của đại học Duke (Mỹ) vừa được công bố mới đây phân tích về nhân tố người nuôi đã thúc đẩy thương mại rùa bất hợp pháp, trong đó tồn tại độ vênh về pháp luật và một hệ thống chăn nuôi động vật hoang dã thương mại phức tạp.

Rùa đứng đầu bảng về nguy cơ tuyệt chủng 

Tại khu vực tiểu vùng Mekong những năm gần đây, nhu cầu về các sản phẩm động vật hoang dã tăng dẫn đến tình trạng buôn bán động vật bất hợp pháp, đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của nhiều loài nguy cấp trong khu vực.

Trong số các động vật đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng gia tăng, rùa đứng đầu bảng.

Loài này suy giảm nhanh đến mức các nhà bảo tồn gọi tình trạng này là “Cuộc khủng hoảng rùa châu Á”, khi mà 17/25 loài rùa nguy cấp nhất sống ở châu lục này.

Buôn bán rùa trái phép diễn ra công khai ngay trên vỉa hè ở TP.HCM. Ảnh: Báo Thanh Niên


Nhu cầu tăng cao đối với các sản phẩm từ rùa để làm trang sức và sử dụng y học cổ truyền trên khắp Trung Quốc – quốc gia tiêu thụ rùa lớn nhất thế giới – gây ra nạn buôn bán rùa tràn lan.

Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng, kéo theo sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, khiến việc tiêu thụ rùa có thể gia tăng theo tỉ lệ thuận.

Do gần gũi về địa lý và có hệ động vật rùa phong phú, các quốc gia trong khu vực Mekong đóng vai trò quan trọng là nhà cung cấp cho Trung Quốc. Việt Nam cũng không ngoài thị trường này.

Số liệu của tổ chức WCS cho thấy, phần lớn rùa ở Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc – nước có thị trường rùa lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 750 triệu USD/năm với hơn 300 triệu con rùa được bán hàng năm.

Tuy nhiên vẫn có một thị trường đáng kể về rùa quý hiếm ở Việt Nam phục vụ nhu cầu làm thú cưng, đặc sản và làm thuốc, nên khi nguồn cung ngoài tự nhiên thu hẹp thì giá rùa tăng cao. Từ năm 2013 đến 2015, giá rùa hộp trán vàng miền Bắc đã tăng gấp năm lần, từ 31,70 USD/kg lên 164,96 USD/kg; giá rùa đất Spengle siêu nhỏ tăng từ khoảng 2 USD lên 105 USD cho một cá thể. Năm 2015, rùa bốn mắt có giá từ 130 đến 250 USD/kg, gấp đôi giá trung bình năm 2013.

Hiện nay những nỗ lực ở cấp độ quốc gia được triển khai trên khắp khu vực để bảo tồn rùa nhưng luật pháp trong nước mâu thuẫn với luật chống buôn lậu quốc tế, vô hình trung điều này tạo điều kiện cho buôn bán rùa bất hợp pháp.

Kẽ hở từ người nuôi

Để chống lại sự khai thác quá mức và sự suy giảm nhanh chóng của quần thể rùa ở khu vực sông Mekong, đặc biệt ở Việt Nam và Lào, báo cáo (*) vừa được đại học Duke (Mỹ) công bố mới đây, cho thấy một nhân tố cụ thể thúc đẩy thương mại rùa bất hợp pháp từ kẽ hở từ người nuôi.

Đó là vấn đề các trang trại nuôi động vật hoang dã thay thế, hoặc bổ sung các loài được nuôi bằng động vật hoang dã.

Mặc dù luật pháp ở Việt Nam, Lào và Campuchia không cho phép săn bắn và buôn bán các loài quý hiếm và nguy cấp, nhưng chỉ áp dụng cho những loài bị bắt trong tự nhiên, chứ không áp dụng cho các loài được nuôi trong các trang trại thương mại.

Do đó, người nuôi có thể bán các loài bắt từ tự nhiên, sau khi "tẩy sạch" nguồn gốc bằng cách tuyên bố bất hợp pháp rằng những cá thể đó được nhân giống thương mại trong các trang trại.

Quy trình đăng ký chăn nuôi động vật hoang dã thương mại phức tạp, và chủ trang trại phải liên hệ với rất nhiều tầng nấc đã góp phần vào sự tồn tại của kẽ hở ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong ảnh: Các cá thể rùa bị buôn bán trái phép. Ảnh: TL NNVN


Ở Việt Nam tồn tại một hệ thống phức tạp. Các chủ trang trại phải được sự chấp thuận của cả Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, và Bộ Tài nguyên và môi trường và tuân theo hai thủ tục khác nhau.

Việc sở hữu giấy phép từ hai cơ quan khác nhau chất thêm gánh nặng pháp lý lên các công tố viên - người phải xử lý các vụ kiện những người vi phạm theo các tiêu chuẩn của hai cơ quan này.

Hơn nữa, sự chồng chéo giữa luật và nghị định ở Việt Nam khiến các cơ quan thực thi không hành động, khiến thủ phạm dễ dàng lách luật hơn. Sự phức tạp trong việc xin giấy phép có thể khiến các chủ trang trại có thiện chí không nhận thức được các yêu cầu, bỏ qua quy trình rườm rà, và tham gia vào việc nuôi bất hợp pháp.

Bên cạnh đó, việc phân cấp không hoàn chỉnh, và tình trạng chính quyền chồng chéo ở cấp địa phương tại Việt Nam và Lào cũng tăng cơ hội tham nhũng trong buôn bán động vật hoang dã.

Giấy phép giả và can thiệp số liệu quần thể động vật là phổ biến ở cả hai quốc gia.

Một trở ngại khác để loại bỏ kẽ hở từ người nuôi là không ít lực lượng kiểm lâm và viên chức nhà nước thiếu kiến thức sinh học.

Ở cả Việt Nam và Lào, tình trạng nhầm lẫn về loại động vật nào có thể được nhân giống, buôn bán, vận chuyển và xuất khẩu hợp pháp là khá phổ biến.

Ngay cả khi lực lượng thực thi thống nhất về những loài nào được bảo vệ, thì họ cũng không thể phân biệt được ở thực địa động vật hoang dã và động vật nuôi, và đánh giá xem các loài bị bắt thuộc nhóm quý hiếm, có bị đe dọa hay không.

Cuối cùng, do người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, kể cả người nuôi động vật hoang dã, lại càng khuyến khích các trang trại nuôi tham gia vào việc buôn bán trái phép động vật hoang dã.

Nhiều kiến nghị

Báo cáo đã đề xuất cần thay đổi hành vi người tiêu dùng các sản phẩm động vật quý hiếm để giảm nhu cầu tại Việt Nam.

Cải thiện việc thực thi bằng cách hoàn thành mã vạch DNA cho các loài rùa Đông Nam Á, cũng như đào tạo các cán bộ thực thi và công tố viên về nhận dạng chính xác rùa bằng cách sử dụng một giáo án rõ ràng, được cấu trúc hợp lý với mục tiêu học tập có thể xác định được.

Chăn nuôi bền vững, đào tạo người nuôi về sinh sản và trách nhiệm pháp lý phù hợp, cho phép bán một số động vật hoang dã để bổ sung thu nhập.

Hơn 300 triệu con rùa bị bán hàng năm

Tại Việt Nam, số liệu của WWF năm 2018 cho thấy: hơn 4.500 tấn sản phẩm từ động vật hoang dã được bán và tiêu thụ.

Số liệu của Hiệp hội bảo tồn Động vật hoang dã (WCS) : gần 1/3 (8.118 bộ phận động vật hoang dã) trong số 26.221 bộ phận động vật hoang dã bị tịch thu từ năm 2013 đến 2017 là rùa.

Trong số 1.504 vụ bắt giữ liên quan đến động vật hoang dã, 150 vụ (chiếm 10,31%) liên quan đến rùa, và rùa trở thành nhóm loài lớn thứ hai trong số các vụ bắt giữ động vật hoang dã ở Việt Nam.

Buôn bán, trao đổi rùa trực tuyến đang tăng nhanh.

Khảo sát của nhóm nghiên cứu đại học Duke cho thấy trên Facebook tồn tại rất nhiều nhóm có hàng chục nghìn thành viên hoạt động khá tích cực như: Hội Yêu Rùa Việt Nam (11.397 thành viên), Hội Yêu Rùa Cạn (10.784 thành viên), Hội Yêu Rùa Kiểng Việt Nam (9.462 thành viên).

L.Quỳnh

______________

(*) Nghiên cứu Scaling back wildlife trade in the Mekong Delta: Applying apolitical lens to the farmer loophole with a focus on Vietnam and Laos (Tạm dịch: Mở rộng quy mô buôn bán động vật hoang dã ở vùng Mekong: Áp dụng lăng kính chính trị vào kẽ hở từ người nuôi, tập trung tại Việt Nam và Lào).

>> Bị phạt 3 triệu đồng vì bán rùa quý hiếm

>> Bảo tồn rùa biển bắt đầu từ con trẻ

>> Nữ 'hiệp sĩ' 95 tuổi giải cứu rùa biển Thổ Nhĩ Kỳ khỏi tàu và những khu resort

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.