Theo GS-TS. Võ Văn Chi (Chuyên gia cây thuốc Việt Nam; Nguyên giảng viên đại học Y Dược TP.HCM), trong các vườn gia đình của người Việt Nam, cây đu đủ trở thành một trong những cây ăn trái trồng phổ biến và cũng hiện diện nhanh chóng ở các nước nhiệt đới nhờ nhân giống dễ dàng bằng hạt. Không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm bổ dưỡng, đu đủ từ lâu còn được xem là dược liệu có nhiều công hiệu đáng quý.
Đu đủ có tên khoa học là Carica papaya L., thuộc họ đu đủ (Caricaceae). Chúng là cây đa tính: các cây đực có hoa đực và hoa lưỡng tính, các cây cái có hoa cái và hoa lưỡng tính. Trái kết từ hoa cái thường tròn, khoảng rỗng trong trái to, thịt mỏng, nhiều hạt. Còn các trái kết từ hoa lưỡng tính thì dài hình quả lê, có khi có những trái dị dạng do số lá noãn không phải là 5 như bình thường mà chỉ có 2 hoặc 3, có khi đến 9 - 10 lá noãn hợp lại thành bầu một ô; thịt dày và chứa ít hạt.
Trái đu đủ chín có vị ngọt, rất bổ, ăn nhiều thì nhuận tràng, giúp tiêu hóa các chất thịt, các chất albumin. Ảnh: CTV
Thức ăn bổ dưỡng
Người ta trồng lấy đu đủ chín làm thức ăn bổ dưỡng. Trong 100g ăn được của đu đủ chín có: nước 87,1%; protein 0,5%; lipid 0,1%; đường tổng số 11,8%, các vitamin B1 0,03 mg; tương đương vitamin A 710 microgram, vitamin C 73 mg; vitamin B2 0,05 mg, vitamin P 0,4 mg và các chất khoáng: calcium 24 mg, phosphor 22 mg, sắt 0,7 mg, natrium 4 mg, kalium 221 mg. 100 g đu đủ cung cấp cho cơ thể 45 calo.
Trái đu đủ khi còn xanh cũng có nhiều công dụng: dùng nấu thịt (nhất là thịt ba rọi) cho chóng nhừ, luộc ăn, dùng muối dưa, làm mứt,... Đu đủ xanh sống có tác dụng tiêu mạnh nhưng ăn nhiều thì xót ruột. Do đó, những người đau dạ dày nên kiêng ăn. Lá đu đủ gói thịt trong vài giờ sẽ làm cho thịt mềm nhanh.
Từ lá, hoa, trái, rễ, hạt, nhựa cây đu đủ…, mỗi bộ phận đều có những đặc tính dược lý được dùng trong nhiều mục đích khác nhau. Ảnh: CTV
Công dụng làm thuốc
Trái đu đủ chín có vị ngọt, rất bổ, ăn nhiều thì nhuận tràng, giúp tiêu hóa các chất thịt, các chất albumin. Những người táo bón nên ăn nhiều để thông đại tiện, nếu ăn nhiều thịt, trứng và thức ăn nhiều đạm, thì nên ăn đu đủ tráng miệng vừa làm thuốc tiêu thực tốt.
Người bệnh loét dạ dày, kém ăn, dùng đu đủ xanh nấu chín với thịt gà, ăn cách ngày trong vài tuần. Bị chấn thương bầm giập dùng ngay trái đu đủ xanh xẻ đôi, đổ vào ly rượu trắng và đặt lên bếp nấu cho chín, đem ra áp lên vết thương, có thể bóp nát rồi băng lên. Ngoài ra để trị giun kim, dùng vài miếng đu đủ buổi sáng sớm, ăn lúc còn đói, liên tục 3 - 4 ngày.
Lá đu đủ nấu nước dùng tẩy sạch vết máu ở vải và các vết loét, vết thương, sát trùng. Người ta còn cho rằng lá đu đủ dùng tươi sắc uống rất có lợi cho bệnh nhân ung thư phổi, ung thư vú.
Rễ đu đủ dùng chữa rắn cắn (rửa sạch nhai nuốt nước, lấy bã đắp).
Hoa đu đủ được nấu lên dùng làm thuốc hạ sốt, chữa ho (phối hợp với các vị thuốc khác, hấp đường) và cũng dùng trị giun.
Hạt đu đủ ép có thể chiết xuất 25% một loại dầu thực phẩm.
Trong y học hiện nay, người ta dùng nhiều nhất là nhựa đu đủ làm khô mà thành phần chính là papain, một hoạt chất có rất nhiều tác dụng (tiêu hóa protid, biến đổi các chất có albumin thành pepton; còn làm dễ tiêu hóa và giải độc...).
Bài và ảnh: Hoài Nam