Ở các nước tiên tiến, bệnh suy tĩnh mạch có một ý nghĩa y tế - xã hội khá quan trọng vì là loại bệnh rất thường gặp. Theo các thống kê ở Pháp, bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chiếm đến 1% ở nam giới và 4,5% nữ giới ở tuổi trưởng thành, trong đó có hơn 70% là nữ và khoảng 35% ở những người đang làm việc.
Muốn điều trị có kết quả, phải phát hiện sớm bệnh suy tĩnh mạch. Ảnh: PAT
Ở Việt Nam, bệnh cũng rất thường gặp nhưng chưa thực sự được chú ý, chưa có một thống kê đầy đủ về loại bệnh này. Tuy nhiên một nghiên cứu của hội Tĩnh mạch học TP.HCM cho thấy trong số các bệnh nhân đã đến điều trị suy tĩnh mạch ở bệnh viện, có khoảng 75% những người trên 50 tuổi có các biểu hiện của bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới mạn tính, trong đó 2/3 là phụ nữ và 1/3 là đàn ông. Điều đáng lo ngại hơn, trong đó 91,3% bệnh nhân không được điều trị và 8,7% được điều trị không đúng phương pháp, chủ yếu sử dụng các loại thuốc chữa triệu chứng như: Aspirin, lợi tiểu, thuốc đông y…
Suy tĩnh mạch có thể gây tử vong
Máu di chuyển trong lòng tĩnh mạch theo chiều từ nông vào sâu và từ dưới lên trên, nhờ hệ thống van mở ra khi máu đi về trung tâm, đóng lại không cho máu chảy ngược; và lực hút do hoạt động của cơ hoành, sức hút của tim, áp lực âm vùng trung thất cùng lực đẩy do hoạt động của hệ thống cơ. Khi máu trở về tim khó khăn, gây ra tình trạng ứ trệ tuần hoàn làm nặng chân, phù chân, chuột rút là lúc bệnh nhân được chẩn đoán suy tĩnh mạch.
Trên thực tế không phải người nào cũng có khả năng bị bệnh này, chỉ có một số người thuộc nhóm có nguy cơ cao là hay bị. Di truyền là mẫu số chung cho những bệnh nhân này, trong thực hành bệnh viện hàng ngày chúng tôi nhận thấy có một số người về di truyền dễ bị mắc bệnh hơn những người khác, nguyên nhân do những thay đổi về enzyme trong mô liên kết. Béo phì cũng là một yếu tố nguy cơ rất cao gây bệnh suy tĩnh mạch.
Bệnh nhân bị suy tĩnh mạch có thể gặp nhiều biến chứng khác nhau. Trước tiên là các biến chứng về rối loạn huyết động học: cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm. Nặng hơn bệnh nhân có thể bị viêm tắc tĩnh mạch, chân nóng, sưng đỏ, các tĩnh mạch nông nổi rõ và viêm cứng.
Giai đoạn cuối cùng có thể diễn tiến đến tình trạng giãn to toàn bộ hệ tĩnh mạch, các tĩnh giãn rất lớn, ứ trệ tuần hoàn và rối loạn dinh dưỡng của da chân phía dưới gây viêm loét, nhiễm trùng rất khó điều trị. Cục thuyên tắc có thể tách rời khỏi thành tĩnh mạch, đi về tim và gây thuyên tắc động mạch phổi, một biến chứng rất nặng có thể đưa đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời.
6 cấp độ của bệnh suy giãn tĩnh mạch chân. Ảnh: TL
Những dấu hiệu suy tĩnh mạch
Các triệu chứng thường gặp nhất trong giai đoạn đầu là phù hai chi dưới đi kèm với cảm giác nặng, chuột rút về ban đêm, triệu chứng này sẽ bớt khi bệnh nhân kê chân cao buổi tối khi đi ngủ.
Về sau các triệu chứng nặng dần và xuất hiện các mảng rối loạn dinh dưỡng trên da và các tĩnh mạch giãn dần, nổi ngoằn nghoèo, có thể có những đợt viêm tắc tĩnh mạch với các triệu chứng nhiễm trùng toàn thân như sốt cao, môi khô, lưỡi dơ và tại chỗ tĩnh mạch bị viêm đỏ, bên trong lòng xuất hiện những cục thuyên tắc cứng v.v…
Việc chẩn đoán được xác định bằng siêu âm Doppler màu mạch máu, với phương pháp này cho phép chúng ta xác định được những rối loạn huyết động học, tình trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng mạch để từ đó có thái độ điều trị đúng đắn.
Đi bộ cũng giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh suy tĩnh mạch và các bệnh lý về tim mạch. Ảnh: Hoàng Triều
Phòng ngừa và điều trị thế nào?
Phòng ngừa: đơn giản nhất là kê chân cao khi nằm nghỉ. Phương pháp này nhằm chặn đứng sự trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được tốt hơn.
Ngoài ra, một chế độ tập luyện hợp lý, làm tăng sức bền của thành mạch máu bằng tập thể dục, tập cơ mạnh hơn, tránh đứng hay ngồi lâu một chỗ, tập hít thờ sâu, mang vớ thun hay quấn chân bằng băng thun, sửa lại vị trí bàn chân đối với các dị tật, tránh béo phì, tập hít thở sâu, ăn chế độ giàu vitamin, có nhiều chất xơ để tránh táo bón... cũng là những phương pháp phòng ngừa hiệu quả.
Đi bộ cũng giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh suy tĩnh mạch và các bệnh lý về tim mạch, hạn chế tình trạng béo phì - nguyên nhân của nhiều loại bệnh mạn tính hiện đang là đại dịch đe dọa đến sức khỏe của nhân loại như: tiểu đường, cao huyết áp, ung thư. Vì khi đi bộ, toàn thân đều vận động, nhịp tim nhanh lên, các mạch máu giãn nở, quá trình trao đổi chất tăng. Một số nghiên cứu cho thấy: việc đi bộ thường xuyên sẽ làm giảm hàm lượng cholesterol có hại (LDL) - nguyên nhân chính gây xơ vữa động mạch, tăng hàm lượng cholesterol có lợi (HDL).
Điều trị: đối với người bị suy tĩnh mạch, hiện tại có một số phương pháp điều trị chính nhằm kiểm soát hay chặn đứng sự trào ngược, loại bỏ trào ngược từ các tĩnh mạch nhánh và từ các mạch nối, cuối cùng là ngăn ngừa sự tràn ngập mô kẽ do dịch thấm ra từ các vi quản:
- Băng ép nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để tăng khả năng vận chuyển khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.
- Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch. Nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Tuy nhiên, phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.
- Phẫu thuật với hai phương pháp chính: phương pháp Stripping lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch, cho kết quả khá khả quan và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để, có tỷ lệ tái phát thấp. Ngoài ra, hiện nay người ta còn áp dụng phương pháp làm lạnh với nitơ lỏng âm 90 độ C để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch. Tuy nhiên phương pháp này cho tỷ lệ tái phát khá cao, đến 30% các trường hợp.
Hiện nay việc sử dụng Laser hoặc có thể sử dụng sóng cao tần nhằm loại bỏ dòng máu trào ngược trong điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới, gọi tắt là RFA (radio frequency ablation). Đây là phương pháp điều trị mới nhất đã được Cơ quan Quản lý dược phẩm và điều trị Hoa Kỳ cho áp dụng rộng rãi ở Mỹ. Ở Việt Nam, phương pháp này cũng được một số thầy thuốc áp dụng, mang lại kết quả tốt.
Việc điều trị bệnh suy tĩnh mạch đòi hỏi sự kết hợp giữa dùng thuốc, phẫu thuật và tập vật lý trị liệu tại các trung tâm chuyên sâu về bệnh này, các khoa phẫu thuật mạch máu tại một số bệnh viện lớn khác. Tuy nhiên, muốn điều trị có kết quả, phải phát hiện sớm bệnh suy tĩnh mạch. Việc phát hiện bệnh sớm không chỉ hoàn toàn dựa vào thầy thuốc mà mỗi người phải tự tìm hiểu cơ thể để xem có bị bệnh suy tĩnh mạch hay không.
PGS-TS-BS. Nguyễn Hoài Nam (Chủ tịch Hội Tĩnh mạch học TP.HCM)