Trên thị trường hiện nay có rất nhiều phương cách đo mật độ xương. Đo mật độ xương bằng sóng siêu âm sử dụng một loại máy nhỏ, người dùng đưa bàn chân vào thiết bị và được trả kết quả là một con số, dựa vào đó để đánh giá có bị loãng xương hay không.
Dù đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng nhưng độ chính xác của phương pháp này lại không cao nên không được chấp thuận trong chẩn đoán loãng xương mà chỉ dùng để sàng lọc.
Ví dụ, kết quả từ máy đo mật độ xương bằng sóng siêu âm cho thấy người dùng đang bị loãng xương nặng thì họ sẽ được khuyên nên đi đo lại bằng một phương pháp chuẩn.
Cho tới nay, phương pháp được xem là chuẩn nhất, là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán loãng xương là đo mật độ xương bằng kỹ thuật DEXA với nguyên lý hoạt động là sự hấp thụ tia X kép.
Phương pháp này có thể đo ở nhiều vị trí như cẳng tay, ngón tay, cổ chân... Tuy nhiên, chỉ có 2 vị trí được chấp thuận dùng để chẩn đoán loãng xương là cột sống thắt lưng và cổ xương đùi.
Đo mật độ xương bằng kỹ thuật DEXA là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương. Ảnh: TL
Đo ở cổ xương đùi cho ra nhiều kết quả nhưng 2 nơi được chấp thuận làm tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương, gồm cổ xương đùi và tổng cả vùng cổ xương đùi.
Khi nhỏ, mật độ xương của chúng ta thấp, sau đó tăng dần lên cho đến khi đạt mật độ xương đỉnh vào năm 25 - 30 tuổi. Đường biểu diễn mật độ xương đi ngang trong một thời gian ngắn rồi giảm dần theo tuổi tác, tình trạng mãn kinh ở phụ nữ.
Kết quả đo mật độ xương của cá nhân là một con số, sau đó chúng ta mang kết quả này so sánh với mật độ xương của quần thể. Các nghiên cứu cho thấy, nếu mật độ xương của cá nhân thấp hơn nhiều lần so với quần thể, đến hơn -2,5 độ lệch chuẩn (T-score < 2,5), sẽ làm tăng nguy cơ gãy xương và được định nghĩa là bị loãng xương.
Độ lệch chuẩn chưa đến -2,5 (khoảng -10 đến -2,5) được gọi là tình trạng thiếu xương.
Nếu kết quả đo cho thấy bệnh nhân mất xương nhiều hơn -2,5 và từng bị gãy xương cẳng tay, cổ xương đùi hay đốt sống, tình trạng này được gọi là loãng xương nặng.
Gãy xương làm tăng nguy cơ tử vong. Ảnh: CTV
Nguy cơ gắn liền với loãng xương là gãy xương. Gãy xương gây đau và làm mất chức năng vận động. Một điều nguy hiểm nhưng ít người biết, gãy xương còn tăng nguy cơ tử vong. 30% trường hợp từng gãy xương ở vị trí cổ xương đùi hoặc cột sống sẽ qua đời chỉ trong 1 năm, tỷ lệ này thậm chí cao hơn ở nam giới. Trong vòng 3 - 5 năm, tỷ lệ tử vong lên đến 50%.
Trước đây, nhiều người cho rằng loãng xương thường gặp ở người lớn tuổi, bị gãy xương khiến bệnh nhân không vận động được, làm tăng nguy cơ tim mạch và nhiều bệnh khác, từ đó làm tăng nguy cơ tử vong. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã bác bỏ quan điểm này.
Ngay cả khi không có các bệnh đi kèm vừa nêu, nguy cơ tử vong của bệnh nhân sau gãy xương cũng tăng lên. Không chỉ vậy, sau khi bị gãy 1 xương, khả năng các xương khác bị gãy sẽ tăng gấp 2 - 3 lần so với người chưa từng bị gãy xương.
Các nghiên cứu cho thấy, 50% bệnh nhân bị giảm đến mất chức năng vĩnh viễn và 80% bệnh nhân phải phụ thuộc vào người khác. Những con số thống kê đã cho thấy, gãy xương do loãng xương là một biến cố nguy hiểm, có thể làm giảm chất lượng cuộc sống cũng như khả năng sống còn của người bệnh.
ThS-BS-CK2. Hồ Phạm Thục Lan
(Trưởng Đơn vị chuyển hóa Cơ xương khớp, Trung tâm nghiên cứu Y sinh, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM)