Trong một tuyên bố tại cuộc họp thường trực Chính phủ về đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VII và điều chỉnh quy hoạch than 60 (Đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020) vào ngày 19.1 vừa qua, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “cần phải rà soát, tính toán kế hoạch phát triển tất cả các nhà máy điện than, không phát triển thêm điện than".
Thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong cắt giảm khí phát thải, và đẩy mạnh đầu tư phát triển điện tái tạo.
Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 - là một trong 4 nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, 2, 3, 4 nằm liên hoàn ngay bên bờ biển. - ảnh: Lê Quỳnh
Giảm phụ thuộc nhiệt điện than
Có thể xem tuyên bố trên đã phát đi tín hiệu mạnh mẽ về việc giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiệt điện than từ phía Chính phủ Việt Nam.
Việt Nam đã được biết đến là một trong những nước dẫn đầu thế giới về số lượng các nhà máy nhiệt điện than được quy hoạch xây mới, chỉ đứng sau Ấn Độ và Trung Quốc. Thống kê, hiện nay Việt Nam có 19 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động; và đến năm 2030, theo Quy hoạch phát triển điện VII, Việt Nam sẽ có thêm trên 33 nhà máy nhiệt điện than được xây dựng mới với công xuất khoảng 60.000 MW.
Nhận xét về tuyên bố vừa rồi, ông Tim Buckley, Giám đốc Nghiên cứu Năng lượng Tài chính Úc, Viện Kinh tế năng lượng và Phân tích Tài chính cho biết, quyết định cho thấy sự đẩy mạnh chuyển đổi thị trường điện. An ninh năng lượng là một trong những nhu cầu cấp bách nhất của bất kỳ quốc gia nào, việc thúc đẩy phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời, và sử dụng năng lượng hiệu quả chính là cách đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia từ nguồn tại chỗ.
Đồng thời, việc Việt Nam giảm bớt nhiệt điện than cũng được xem như là một cú bồi đối với ngành công nghiệp than toàn cầu vốn đang vật lộn để tồn tại. Số liệu công bố giữa tháng 1.2016 cho thấy, nguồn nhiệt điện than của Trung Quốc đã giảm khoảng 4%/năm, dựa trên con số báo cáo suy giảm năm 2014. Nhập khẩu than của Ấn Độ giảm 15% trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12.2015. Thực tế này càng làm nổi rõ hơn sự thoái trào của ngành công nghiệp than toàn cầu.
Bãi xỉ than của nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân như là "vành tang trắng" môi trường cho người dân địa phương. - ảnh: Lê Quỳnh
Dự báo nhu cầu điện quá cao
Kì vọng, bà Ngụy Thị Khanh, giám đốc Trung tâm phát triển sáng tạo xanh (GreenID) cho biết: trong Quy hoạch phát triển điện VII điều chỉnh sẽ được công bố trong những ngày tới, hy vọng Chính phủ sẽ đánh giá lại một cách toàn diện tất cả các nhà máy điện than đã đề xuất, và ban hành các chính sách để nhanh chóng đẩy mạnh sự phát triển của năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả.
Song hành, tất cả các nhà máy điện than hiện có và đang có kế hoạch xây mới cần phải được áp dụng hệ thống kiểm soát ô nhiễm và công nghệ hiệu suất cao phù hợp với tiêu chuẩn và thực tiễn tốt của quốc tế.
Nghiên cứu được công bố vào tháng 7.2015 của GreenID cho thấy, nhu cầu điện dự báo trong Quy hoạch điện VII là quá cao. Nguyên nhân sâu xa là do chọn GDP giai đoạn từ 2010 – 2015 (là từ 7,5% đến 8%) khác xa so với thực tế, khi mà thực tế chỉ đạt dưới 6%, các năm sau tương tự. Phương pháp luận tính toán trong quy hoạch cũng chưa chuẩn, số liệu còn thiếu và đơn giản hóa. Điều này sẽ dẫn đến khó phát triển hài hòa nguồn điện, truyền tải và phân phối điện, vì đòi hỏi vốn quá lớn, lãng phí vốn, khó khăn trong giải phóng mặt bằng và xây dựng, gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn...
Cũng theo nghiên cứu của GreenID, cơ chế bù giá cho nhiên liệu hóa thạch hiện đã chấm dứt. Từ tháng 7.2014, than cấp cho nhiệt điện than đã theo giá thị trường. Giá than nhiên liệu cho điện tăng cao hơn nhiều do không còn bù giá. Với một số nhà máy đã vận hành như Mạo Khê, Cẩm Phả, Quảng Ninh 1 và Quảng Ninh 2, trước khi được tính giá than theo thị trường, giá thành quy đổi giao dịch từ 3,7 - 4,2 cent/kWh. Sau khi than được tính theo giá thị trường, giá thành đã tăng lên tới 5,5 – 6,5 cent/kWh. Một số nhà máy sử dụng than nhập khẩu như Na Dương, Long Phú 1, Sông Hậu 2, giá thành đã tăng tới 8,38 cent/kWh.
Nếu tính giá than hàng năm tăng lên 2%, và có tính tới khả năng đánh thuế carbon cho nhiệt điện, thì giá thành quy đổi của nhiệt điện than sẽ tăng lên nhiều, có nhà máy nhiệt điện giá thành lên tới 10,4 ±1 cent/kWh. Với giá thành này thì năng lượng gió đủ khả năng cạnh tranh trong tương lai, và đó là cơ sở rất hiện thực.
Trên cơ sở nghiên cứu về giá này, trong tương lai không xa, năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió, sẽ hoàn toàn có thể tham gia tích cực hơn vào hệ thống điện Việt Nam.
Theo nghiên cứu của GreenID, so với Quy hoạch điện VII, nếu giảm sản lượng điện từ 151 - 208 tỷ kWh, tương đương với tổng công suất 35.000 - 45.000 MW, trong đó có 5.000 MW điện nguyên tử và khoảng 30.000 - 40.000 MW nhiệt điện than, thì sẽ giảm được khoảng 45 - 50 tỷ USD đầu tư cho xây dựng nhà máy điện mới mà vẫn đáp ứng được nhu cầu.
Điều này đồng nghĩa với giảm nhiệt điện than xuống còn 40% vào năm 2020, và giảm 45% vào năm 2030, đồng thời giảm lượng phát thải khoảng 150 triệu tấn CO2.
Lê Quỳnh